Thứ Hai, 9 tháng 4, 2012 | 0 nhận xét


Hoa anh đào nở rực rỡ ở Nhật Bản

Hàng triệu người trên khắp nước Nhật đang đổ tới những điểm có hoa anh đào nở rộ để chiêm ngưỡng những sắc màu của loài hoa biểu tượng cho xứ Phù Tang.

Những bông hoa anh đào nở bung cánh ở thủ đô Tokyo ngày hôm qua.
Một cậu bé ngôi trên vai cha để đi dạo chơi dọc một bờ sông nở đầy hoa anh đào tại Tokyo.
Người dân tụ tập tại một công viên ở Tokyo để cùng ngắm hoa anh đào nở, phía xa là tháp truyền hình Tokyo nổi tiếng. Hàng triệu người Nhật đổ tới những địa điểm có thể ngắm hoa anh đào, trong mùa hoa thứ hai kể từ sau thảm họa động đất sóng thần hồi tháng 3/2011.
Không chỉ đi dạo trên những con đường, người dân Nhật còn cùng nhau lên những chiếc thuyền ngược xuôi trên sông Sumida ở Tokyo để ngắm những cánh hoa anh đào.
Hai phụ nữ Nhật đi dạo tại một công viên trong bộ đồ kimono truyền thống.
Cô gái trẻ này đang kéo một cành hoa anh đào để chụp một bức ảnh cận cảnh loài hoa biểu tượng của nước Nhật.
Người dân đứng chặt một con đường ở Tokyo để ngắm hoa anh đào, loài hoa thường nở rộ ở Nhật Bản vào cuối tháng 3 và đầu tháng 4 hàng năm.
Khung cảnh như tranh vẽ tại một công viên ở thủ đô Tokyo hôm 1/4.
Người phụ nữ này đang bế con gái để giúp bé cố với tới một cành hoa anh đào màu hồng tại một ngôi đền ở Tokyo hôm 1/4.
Hai võ sĩ sumo đi dưới hàng cây hoa anh đào màu trắng tại đền Yasukuni ở Tokyo hôm qua. Theo giới chức Nhật, hoa anh đào năm nay bắt đầu nở rộ từ 31/3, tức là chậm hơn khoảng 5 ngày so với thường lệ.


                                                                                                                                trích từ vnexpress.

Hội họa Nhật Bản

Thứ Năm, 5 tháng 4, 2012 | 0 nhận xét


Nghệ thuật tạo hình Nhật Bản

Hội họa

Hội họa Là một loại hình nghệ thuật lâu đời nhất và tinh tế nhất của Nhậ Bản, có nguồn gốc từ truyền thống kinh điển của lục địa vào thời kỳ xa xưa của kịch sử(khoảng thế kỷ thứ 6, thứ 7 sau Công nguyên)
Truyền thống Nhật Bản nguyên thủy đạt tới đỉnh cao của nó trong thời kỳ Heian(1974 – 1185 sau Công Nguyên), đã có nhiều tác phẩm nghệ thuật còn lưu truyền đến ngày nay. Trong thời kỳ chịu ảnh hưởng mạnh của Trung Hoa, những hình thức nghệ thuật mới đã được ứng dụng, chẳng hạn như tác phẩm vẽ về Phật, những bức vẽ bằng mực vào thời kỳ Muromachi, và các bức họa phong cảnh trong thời kỳ Tokugawa. Khi lý thuyết hội họa du nhập vào Nhật trong thời kỳ Meiji, Nhật Bản đã có một lịch sử lâu dài mô phỏng theo nhung ý tưởng được du nhập. Nhưng phải đến thế kỷ 20 người Nhật mới đồng hóa tranh sơn dầu với những ý tưởng mới về không gian ba chiều trên mặt phẳng.

Hội họa theo kiểu Nhật đã tiếp tục theo một thời trang mới, cập nhật hóa những khái niệm truyền thống trong khi vẫn giữ những đặc điệm thuộc về bản chất của nó. Một số họa sĩ theo dạng này vẫn vẽ trên lụa hoặc giấy với màu và mực truyền trống, trong khi đó có một số khác sử dụng những chất liệu mới về Ainu, với lối thiết kế rõ ràng có nguyên mẫu từ thời tiền sử. Người ta có thể ngược dòng lịch sử để trở về thế kỷ 15 ở Nishijin, một trung tâm dệt của Kyoto, nơi sản xuất những loại vải đẹp dành cho vua chúa và quý tộc.
Đến thế kỷ 17, việc thiết kế mãu vải được dử dụng khuân tô và hồ, với phương pháp yuzen, tức là nhuộm màu dùng hồ để phết lên những chỗ không cần nhuộm. Cách nhuộm yuzen  đã được áp dụng trong cả việc làm vải kim tuyến cho giới quý tộc, loại vải cấm thường dân sử dụng lúc bấy giờ. Cách nhuôm này cũng được áp dụng để làm Kimono, rồi sau đó nền công nghệ thời trang đương đại đã bắt chước để sử dụng cho các loại y phục kiểu Tây phương. Ở Okinawa phương  pháp nhuộm yuzen nổi tiếng này đã được đưa vào kỹ thuật nhuộm binga ra để thiết kế ra nhiều kiểu vải  màu sắc lộng lẫy.
Sơn mài, loại plastic đầu tiên của loài người,được phát minh ở châu Á, và việc sử dụng nó ở Nhật Bản được tính từ thời tiền sử. Đồ sơn mài thường được làm từ gỗ, được sơn lên nhiều lớp cánh kiến đổ, mỗi lớp phải để thật khô trước khi sơn lên lớp khác. Những lớp kiến cánh tạo thành một vỏ bọc chống thấm nước, chống gãy, nhẹ và dễ lau chùi. Việc trang trí trên lớp mặt với vàng hoặc là phủ màu từng lớp, hoặc trang trí trên lớp mặt vàng hoặc khảm bằng những chất liệu quý, đã trở thành một nghệ thuật đáng giá từ thời kỳ Nara( năm 710 – 794 sau Công Nguyên).

Việc làm giấy là một đóng góp của nền văn minh châu Á. Nghệ thuật làm giấy từ cây dâu của Nhật Bản được cho là bắt đầu từ thế kỷ thứ 6 sau Công Nguyên. Nhuộm giấy với nhiều màu sắc khác nhau và trang trí bằng các mẫu thiết kế đã là một việc chính của triều đình heian, và việc thưởng thức vẻ đẹp của giấy cùng với công dụng của nó đã tiếp tục sau đó, vời sự thay đổi hiện đại hơn. 
Loại giấy truyền thống gọi là Izumo được dử dụng vào việc trang trí các fusuma (những tấm bình phong), dùng cho các họa sĩ vẽ tranh và để viết những bức thư thanh lịch. Một số tiếng của Trung Hoa, đặc biệt là nước men màu ngọc bích và màu xanh biển. Một trong những màu men được ưa chuộng nhất ở Nhật Bản là màu Socola trên những chén trà do các thiền sư  mang từ đời Tống ở Trung Hoa.

Võ thuật Nhật Bản

Thứ Tư, 4 tháng 4, 2012 | 0 nhận xét


Đặc sắc Võ thuật Nhật Bản

Karate 
Karate trong tiếng Nhật có nghĩa là tay không, là một môn võ có liên quan tới môn võ Thiếu lâm của Trung Hoa và môn Taekwondo của Triều Tiên. Trong môn võ này, người ta tự vệ bằng nắm tay, cùi chỏ và chân, do đó không sử dụng tới binh khí, đúng như tên gọi của nó. Để đạt được kết quá tối đa, tất cả các động tác đòi hỏi sự tập trung tinh thần cao dộ.
Có hai loại biểu diễn võ thuật karate. Loại thứ nhất gọi là “kata”, trong đó người ta biểu diễn các kỹ năng của mình trước một ban giám khảo. Những tiêu chuẩn để đánh giá trong trừng hợp này là chính xác, kỹ thuật và tư thế. Loại thứ 2 gọi là “kumite”, trong đó hai đấu thủ sẽ đấu với nhau.
Karate bắt đầu có từ thế kỷ thứ 14. Môn võ này bắt đầu lan truyền ở Nhật vào nửa đầu của thế kỷ này.

Judo
Judo có lẽ là một trong những môn thể thao võ thuật phổ biến nhất trên thế giới. Thậm chí nó còn được đưa vào chương trình Olympic và được hàng triệu người trên thế giới tập luyện.
Môn Judo thực tế được phát triển từ một môn võ cổ truyền gọi là Jujutsu, là một môn võ dùng để tự vệ đư ợc các samurai rất ưa chuộng. Sau đó môn này được hiện đại hóa thành môn judo, theo tiếng Nhật có nghĩa là “ phương cách nhẹ nhàng”. Môn võ này dạy người ta những nguyên tắc về sự mềm dẻo và kỹ thuật quan trọng hơn là thể lực. Nguyên tắc củ judo là đánh ngã đối phương bằng cách đổi hướng chính sức mạnh của họ.

Aikido
Nguồn gốc của Aikido từ ở thị tộc Minamoto vào thế kỷ thứ 10. Tuy nhiên đến năm 1920 Ueshiba Morihei đã cải biến nó thành dạng hiện đại. Là một môn võ tự vệ của Nhật, Aikido tổng hợp nhiều kỹ thuật khác nhau, chẳng hạn như Thần đạo, karate và môn đánh kiếm. Theo kỹ thuật của Aikido, người ta có thể áp đảo đối phương và không cần dùng đến nhiều sức.
Thở và thiền là phần hướng nội của Aikido. Sự tập trung của động tác cũng được rút từ nghệ thuật múa cổ điển Nhật Bản và ý thức về “ki”, là sức mạnh của đời sống hay là ý chí của con người, toát ra từ đầu ngón tay.

Kendo 
Kendo là nghệ thuật đánh kiếm của Nhật Bản. Thanh kiếm nguyên thủy không phải cong như chúng ta thấy ngày nay mà phẳng và thẳng theo một dạng rất thô sơ dùng để đâm và chém những nhát đơn giản. Thanh kiếm như chúng ta thấy ngày nay xuất hiện vào khoảng năm 940, có một cạnh với dạng hơi cong.
Trong thời gian thế kỷ thứ 15, 16, 17 có tới khoảng sáu trăm lối kiếm thuật khác nhau được hình thành. Nhiều lối đánh kiếm này còn được lưu truyền tới ngày nay như là những môn võ thuật cổ truyền Nhật Bản. Một lý thuyết logic nhằm thống nhất tất cả những kỹ thuật khác nhau đã được phát triển như là một mặt quan trọng về văn hóa trong việc đào tạo các samurai. Kỹ thuật này đã được kết hợp với võ sĩ đạo của Nhật.

Qua sự huấn luyện nghiêm khắc của Kendo, những võ sinh đã tăng cường thể chất và tinh thần, phát triển một tâm hồn mạnh mẽ, học cách đố i sử đứng đắn với người khác,tôn trọng sự thật, thành thật, luôn cầu tiến, yêu xã hội và dất nước,và đóng góp vào hòa bình và sự thịnh vượng của nhân loại.
Vì sự tập luyện ngày xưa với thanh kiếm bằng sắt hay bằng gỗ cứng đã gây ra nhiều thương tích và nhiều cái chết ngoài ý muốn, những thanh kiếm vô hại bằng tre đã được tạo ra vào khoảng năm 1710. Đến năm 1740, những kiếm sư đã chế ra vỏ che ngực và bảo vệ đầu cũng như loại găng tay nặng. Qua nhiều thế kỷ, những thanh kiếm bằng tre thô sơ đã được cải tiến thành những thanh kiếm trông hấp dẫn và thực tế như chúng ta thấy ngày nay.

Trong môn Kendo hiện đại có hai cách tấn công: chém và đâm. Những nhát chém chỉ được thực hiện trên ba vùng cơ thể: đỉnh đâu, bên phải và bên trái thân người, và hai cẳng tay. Còn những nhát đâm thường chỉ được thực hiện trên cuống họng.Không giống như môn kiếm thuật Tây phương trong đó các đối thủ chỉ lộ một bên cơ thể,trong môn Kendo các đối thủ đứng đối diện nhau.
Trong năm 2000 ở Nhật có nhiều triệu người tập Kendo. Ở nước ngoài có khoảng 1 triệu người tập môn  võ thuật này. Kendo cũng là một phần quan trọng trong việc giáo dục thể chất ở nhà trường. Ở trường tiểu học có một số câu lạc bộ  ngoại khóa về Kendo. Ở các trường trung học, Kendo là một trong số những môn nhiệm ý, và hầu như trường nào cũng có câu lạc bộ Kendo hoặc những nhóm hoạt động ngoại khóa về bộ môn này.

Sumo
Sumo bắt đầu là một môn giải trí cung đình vào thế kỷ thứ 8. Những đấu thủ Sumo được tuyển từ quân đội để múa mua vui cho giới thượng lưu ở triều đình. Qua thời gian nó phát triển dần và thành một môn thể thao vào thế kỷ thứ 17.
Thể thức của môn thề thao này quà là đơn giản. Đấu thủ phía Đông sẽ  đẩy hay làm cách nào đó cho đối thủ phía Tây mất thăng bằng và một bộ phận nào đó của cơ thể(trừ hai chân) chạm đất. Vòng thi đấu có đường kính khoảng 4,55 mét. Không giống như môn đánh quyền Anh, Sumo không phân loại theo hạng cân. Tất cả các đấu thủ Sumo đều to con! Ngoại hình này có được do chế độ ăn uống. Thường các đấu thủ Sumo ăn các món hầm có nhiều mỡ. Ngoài ra có thêm những hoạt động khác bổ sung, chẳng hạn như chế độ mát xa để kích thích tiêu hóa, làm cho họ ăn được nhiều hơn.

Nhựng đấu thủ Sumo thường bắt đầu ở dộ tuổi 15. Hầu hết là ở vùng thôn quê, những “tân” đấu thủ này sẽ gia nhập vào một “đoàn” do một đấu thủ về hưu đứng đầu. Những đấu thủ này sẽ tập luyện để được thăng cấp dần dần. Quá trình đòihỏi rất nhiều nỗ lực. Và những đấu thủ Sumo ở cấp cao nhất sẽ được trả lương.
Mỗi năm có sáu cuộc thi đấu Sumo được tổ chức vào các tháng Giêng, 3, 5, 7, 9, 11.

Hoa viên tuyệt đẹp ở Nhật Bản

| 0 nhận xét


Thăm hoa viên tuyệt đẹp ở Nhật Bản
TPO – Hoa viên Ashikaga là một trong những công viên đẹp bậc nhất ở Nhật Bản. Hãy cùng tới thăm và chiêm ngưỡng loài hoa biểu tượng của tình yêu nhé!
 
Wisteria, một trong nhưng loài hoa biểu tượng cho tình yêu được yêu thích nhất tại Nhật Bản. Wisteria (còn có tên là Fuji ) được cho là một trong những loài hoa có nguồn từ xa xưa nhất trên quần đảo Nhật Bản.
 
 
 
Một trong những nơi tuyệt vời nhất để ngắm hoa Fuji là Hoa viên Ashikaga tại thành phố Ashikaga, Tochigi. Hoa viên Ashikaga có đủ màu sắc sặc sỡ của loài hoa Fuji như xanh, trắng và hồng.
Ba dàn hoa Wisteria trãi rộng trên diện tích 1000 mét vuông, cùng một dàn hoa cực lớn dành riêng cho hoa Wisteria cánh đôi cực hiếm. Tại đây còn có một cây Fuji trên 100 năm tuổi với các nhánh vươn dài phủ kín cây trông giống như chiếc dù khổng lồ màu xanh tím.
 
 
Đặc biệt nhất, có một nơi du khách không khỏi ngất ngây khi chiêm ngưỡng đó là 80 mét đường dưới vòm của những bông hoa trắng fuji.
 
 
 
 
 
Fuji ở Hoa viên Ashikaga thường nở rộ vào đầu tháng Năm, trễ hơn mùa hoa Fuji tại Tokyo một đến hai tuần. Hoa viên Ashikaga là địa chỉ yêu thích nhất của những người thích ngắm Fuji vào mùa khoe sắc tại Nhật Bản, vào mùa cao điểm, hoa viên nườm nượp đón du khách đến đây để thưởng thức tuyệt sắc của thiên nhiên ban tặng.
Nhật Hạ
Theo Webantime